Sản xuất VLXD đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước
Việc quản lý và phát triển vật liệu xây dựng (VLXD) theo quy hoạch là một yêu cầu cấp bách để ngành sản xuất VLXD ở nước ta đủ sức đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cả về số lượng và hầu hết các chủng loại; tiết kiệm và sử dụng tài nguyên hợp lý.
Tính đến thời điểm này đã có quy hoạch của 9 chuyên ngành sản xuất VLXD. Bộ Xây dựng cũng đang chỉ đạo việc điều chỉnh và xây dựng quy hoạch phát triển VLXD tại các địa phương (đến nay có 23 tỉnh đã hoàn thành việc lập điều chỉnh quy hoạch phát triển VLXD đến năm 2020, có 6 tỉnh đang tiến hành lập; còn 15 tỉnh cần phải tiếp tục điều chỉnh các quy hoạch đã được lập trước năm 2000); tiếp tục triển khai các công việc về quy hoạch phát triển xi măng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020; nghiên cứu các phương án công nghệ sử dụng nhiệt thừa để tự phát điện phục vụ cho sản xuất xi măng nhằm giảm chi phí điện năng, hạ giá thành sản xuất kết hợp xử lý môi trường triệt để hơn; tổ chức triển khai Chương trình VLXD không nung giai đoạn 2008-2020.
Bên cạnh đó, Bộ cũng khẩn trương tổ chức điều tra tình hình sản xuất, ô nhiễm môi trường trong sử dụng amiăng cryzotin sản xuất tấm lợp amiăng-xi măng. Tập trung chỉ đạo chương trình cơ khí xi măng, công tác tư vấn đầu tư xi măng tiến tới tổng thầu, tư vấn cung cấp thiết bị, thi công xây lắp và vận hành các dự án xi măng lớn. Tổ chức, tập hợp lực lượng cơ khí xây dựng trong việc chế tạo thiết bị đồng bộ cho dây chuyền sản xuất xi măng có công suất từ 2.500 - 4.000 tấn clinker/ngày; thiết bị thuỷ điện có công suất đến 50MW, các thiết bị cho ngành điện và các loại máy xúc, đào, máy thi công... đây là bước đi quan trọng trong việc chủ động sản xuất, cung cấp thiết bị đồng bộ cho các công trình công nghiệp ngành Xây dựng. Tiếp tục nghiên cứu đầu tư các công nghệ mới, sản phẩm VLXD mới, ứng dụng các công nghệ tiên tiến như công nghệ Nano, các công nghệ sinh học.v.v…
Nhìn chung, các ngành sản xuất VLXD ở nước ta đã đủ sức sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cả về số lượng và hầu hết các chủng loại. Đã áp dụng thành công công nghệ Nano tạo men chống dính, chống nhiễm khuẩn để sản xuất sứ vệ sinh cao cấp, nghiên cứu sản xuất sơn xây dựng tự rửa sạch, chống nhiễm khuẩn. Nhiều loại VLXD mới có tính năng cao, kích thước lớn cũng đã được đầu tư sản xuất. Công tác thị trường cũng có bước phát triển mới. Đã sử dụng công nghệ thông tin bán hàng qua mạng, xây dựng thị trường ảo, xây dựng các tổ hợp thương mại VLXD lớn đồng bộ để giới thiệu, bán sản phẩm. Đã hình thành diễn đàn Kiến trúc - VLXD - Công nghệ nhằm đưa VLXD gắn với công trình kiến trúc và đời sống xã hội.
Với thị trường xi măng, trong các năm qua đã được bình ổn, đáp ứng được nhu cầu trong nước. Trong những tháng đầu năm 2008, việc tăng giá một loạt các chi phí nguyên, nhiên liệu đầu vào (xăng, dầu, than, clinker) đã làm tăng giá thành sản xuất xi măng và các sản phẩm VLXD khác, nhất là đối với khu vực các tỉnh phía Nam. Để bình ổn thị trường và tháo gỡ khó khăn cho các DN, Bộ Xây dựng đã phối hợp Hiệp hội XMVN tiến hành việc đối thoại với các nhà sản xuất xi măng tìm giải pháp ổn định thị trường, ổn định giá và tăng cường vận chuyển clinker từ miền Bắc vào miền Nam. Bộ đã chỉ đạo các đơn vị phát huy công suất tối đa của nhà máy sản xuất xi măng hiện có, không dừng sửa chữa lò trong giai đoạn hiện nay, đồng thời các nhà nhập khẩu tiếp tục nhập clinker trong điều kiện giá cao; tổ chức kiểm tra, chỉ đạo sát sao từng ngày đến từng nhà sản xuất xi măng. Nhờ thực hiện một loạt các giải pháp và có sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Bộ và nỗ lực cố gắng của các DN, thị trường xi măng đã được ổn định. Năm 2006, toàn Ngành sản xuất đạt 32,35 triệu tấn, năm 2007 đạt 36 triệu tấn, năm 2008 ước đạt 40,5 triệu tấn.
Dù vậy, trong kế hoạch phát triển đến 2010, Bộ Xây dựng vẫn chỉ ra rằng, còn một số dự án đầu tư ngoài quy hoạch nhất là trong lĩnh vực gạch ốp lát ceramic, granit, sứ vệ sinh làm cho cung vượt cầu. VLXD cao cấp có giá trị kinh tế lớn, đặc biệt VLXD phục vụ cho các công trình trọng điểm, cao cấp vẫn còn phải nhập ngoại. Công tác xuất khẩu thiếu sự hợp tác, chỉ đạo tập trung, thiếu cơ chế chính sách hỗ trợ nên hiệu quả xuất khẩu còn hạn chế, thậm chí còn tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết ở thị trường nước ngoài. Chất lượng VLXD chưa đều, vẫn còn những sản phẩm chất lượng chưa ổn định, chưa tương xứng với công nghệ đã đầu tư. Vẫn còn những nhà sản xuất đưa ra các vật liệu không thoả mãn yêu cầu kỹ thuật của các tiêu chuẩn đã ban hành như nhôm thanh định hình, thép tròn xây dựng...
Website báo Xây Dựng, 18/09/2008 - P.V